SKKN: “Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non”. Cô Lên Thị Yến Nhi
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non”
2.Mô tả bản chất của sáng kiến
Giáo dục bảo vệ môi truờng cho trẻ mầm non là hình thành cho trẻ có thói quen tốt biết sắp xếp đồ dùng đồ chơi trong lớp và ngoài trời gọn gàng ngăn nắp, biết bỏ rác đúng nơi qui định, biết chăm sóc cây xanh hình thành cho trẻ có thái độ thiện cảm bảo vệ môi trường, biết được hành vi xấu như vứt rác bừa bãi nơi công cộng, vẽ bẩn lên tường, dẫm đạp lên cây xanh…Bên cạnh đó giúp cho các bậc cha mẹ trẻ và cộng đồng có kiến thức cơ bản về giáo dục bảo vệ môi trường và tích cực tham gia vào các hoạt động làm “ Xanh- sạch – đẹp” cho đất nước và cho thế hệ mai sau.
Thực tế lớp tôi đang dạy, lớn 1 Phước Lâm năm nay ngay từ đầu năm có nhiều trẻ ăn bánh kẹo xong còn vứt vỏ trên sân trường chưa biết tự bỏ rác vào đúng nơi quy định, nhiều bạn nhìn thấy rác dưới chân chưa biết nhặc rác bỏ sọt rác đợi đến lúc cô nhắc nhở rồi mới thực hiện hay có nhiều bé dùng bút màu viết, vẽ bậy lên bàn, lên tường lớp …Điều này không phải trẻ chưa được giáo dục mà do đặc thù của trẻ mầm non là mau nhớ nhưng nhanh quên bên cạnh đó cũng do nhiều phụ huynh quá cưng chìu trẻ không giáo dục cũng như cho trẻ tự phục vụ bản thân. Điển hình như đầu năm nhiều phụ huynh đưa các bé đến lớp mua nhiều bánh kẹo cho bé ăn, ăn xong bé vút lung tung nhưng phụ huynh không nhắc nhở con phải bỏ đúng nơi qui đinh hay có nhiều phụ huynh con ăn xong lại giúp con đi vứt rác mà không giáo dục trẻ tự đi bỏ rác. Điều này vô tình đã hình thành cho trẻ tính ỷ lại được người khác phục vụ và không có ý thức biết ăn xong bỏ rác đúng nơi qui định nhằm bảo vệ môi trường.
Từ thực tế đó tôi nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục bảo vệ môi trường đối với trẻ mầm non bởi trẻ ở lứa tuổi này dễ hình thành những nề nếp, thói quen tạo cơ sở cho việc hình thành nhân cách tốt. Cách ứng xử với xã hội, thiên nhiên và môi trường của một con người phần lớn được hình thành và căn bản được hoàn thiện trong lứa tuổi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bên cạnh việc dạy trẻ các hành động bảo vệ môi trường, chúng ta cần dạy trẻ ý thức được những việc làm đó và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý thức trẻ hiểu chứ không phải vì người lớn bắt trẻ phải làm. Trẻ mầm non thường học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm vì vậy người lớn và nhất là cô giáo và phụ huynh phải noi gương cho trẻ làm theo, kịp thời nhắc nhở và giáo dục trẻ thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành thói quen bảo vệ môi trường mà trẻ không thể bỏ được.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm ra “Một vài biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non” đây là biện pháp vô cùng ý nghĩa đối với việc hình thành và phát triển nhân cách con người đặc biệt với trẻ độ tuổi 5 – 6 tuổi trong trường mầm non.
2.1. Các bước và cách thức thực hiện giải pháp
a) Giải pháp 1: Lập kế hoạch lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào các chủ đề trong năm học
Để hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường một cách phù hợp đầy đủ, trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giáo viên phải xây dựng kế hoạch lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào kế hoạch các chủ đề trong năm học và xác định nội dung giáo dục bảo vệ môi trường chính là một mảng của chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Dựa vào kết quả khảo sát thực tế nhận thức của trẻ ở lớp, căn cứ vào tình hình cụ thể của nhà trường, tôi đã lập kế hoạch dự kiến nội dung giáo dục bảo vệ môi trường theo các chủ đề trong năm học như sau:
TT
Chủ đề
Nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường
Hoạt động
1 Trường mầm non – Giữ sạch trường, lớp, không vẽ bẩn lên tường.
– Vứt rác đúng nơi qui định, không khạc nhổ bừa bãi.
– Yêu quí, giữ gìn và bảo vệ đồ dùng đồ chơi, lau dọn vệ sinh trường/ lớp. Sắp xếp đồ dùng đồ chơi ngăn nắp, gọn gàng.
– Phân biệt môi trường sạch, môi trường bẩn ở trường mầm non.
– Đi vệ sinh đúng nơi qui định. * HĐKP: Trường lớp, mẫu giáo của bé.
* HĐNT: Nhặt rác trong sân trường, và nhặt lá cây rụng bỏ vào thùng rác.
* HĐ chiều: Trò chuyện về sự cần thiết của việc rửa tay, rửa mặt. Những thời điểm cần rửa tay, rửa mặt
2 Bản thân – Biết giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ, quần áo đầu tóc gọn gàng, có hành vi văn minh trong ăn uống.
– Sử dụng đồ dùng vệ sinh cá nhân: Khăn mặt, ca, cốc.
Môi trường với sức khoẻ con người.
Nguyên nhân gây ô nhiễm:
– Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước, điện. * HĐKP: Cở thể bé
* Các hoạt động khác
3
Gia đình Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ
Rác thải gia đình:
+ Bỏ rác đúng nơi quy định
+ Tận dụng các phế liệu trong gia đình để làm đồ dùng, đồ chơi.
* HĐKP: một số đồ dùng trong gia đình, Nhu cầu gia đình.
* Hoạt động góc: “ Bé tập làm nội chợ”
* HĐ chiều: Cô giáo dục trẻ biết giúp đỡ bố mẹ sắp xếp dọn dẹp nhà cửa, biết chăm sóc cây hoa có trong nhà mình (tưới nước, nhặt lá vàng.)
4 Nghành Nghề Biết giữ gìn vệ sinh trong ăn uống.
Rác thải nông nghiệp:
+ Bỏ rác đúng nơi qui định
+ Tận dụng các loại rác hữu cơ để ủ làm phân phục vụ cho trồng trọt. *KPKH: Khám phá nghề nông, về hạt gạo.
* Các hoạt động khác.
5 Thực vật Biết giữ gìn vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân,bảo vệ sức khỏe.
Trồng nhiều cây xanh, hoa quả…
Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước, điện. * KPKH: Trò chuyện về cây xanh quanh bé.
6 Động vật Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, biết không chơi ở những nơi mất vệ sinh, những nơi nguy hiểm.
Không vứt rác bừa bãi làm ảnh hưởng đến con người, động vật. KPKH: Trò chuyện về một số loài động vật
Cô giáo dục trẻ biết yêu quý các loài động vật, bảo vệ môi trường sống luôn sạch sẽ, trong lành.
7 Giao thông Rèn luyện nề nếp thói quen hành vi văn minh cho trẻ, chăm sóc bảo vệ sức khỏe, vệ sinh cá nhân đúng cách.
Biết giữ vệ sinh môi trường và giữ gìn sức khỏe. * KPKH: Trò chuyện về các loại phương tiện giao thông.
Giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường, giữ gìn đường phố luôn xanh – sạch – đẹp.
8 Hiện tượng tư nhiên Biết giữ gìn vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường và giữ gìn sức khỏe.
Biết và không ăn uống một số thức ăn có hại cho sức khỏe và ăn mặc phù hợp theo mùa.
Không chơi những nơi mất vệ sinh, nguy hiểm. * KPKH: Trò chuyện về các hiện tượng mưa, gió, nắng,…
Giáo dục trẻ biết giữ gìn môi trường sạch sẽ, không vứt rác bừa bãi.
9 Quê hương – đất nước – Bác Hồ Rèn luyện nề nếp thói quen hành vi văn minh cho trẻ, chăm sóc bảo vệ sức khỏe, vệ sinh cá nhân đúng cách.
Biết giữ vệ sinh môi trường và giữ gìn sức khỏe. * KPKH: Trò chuyện về quê hương, đất nước, xóm làng nơi mình sinh sống
Trên cơ sở có kế hoạch khung của cả năm học, ở từng chủ đề, căn cứ vào nội dung tôi xây dựng mạng hoạt động nhằm tìm kiếm và thiết kế các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cho phong phú, phù hợp với trẻ và chủ đề đang thực hiện. Từ những hoạt động chính trong mạng hoạt động sẽ phát triển thành các hoạt động nhỏ tích hợp vào các thời điểm trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ.
Việc xây dựng kế hoạch khung cho cả năm học và thiết kế mạng hoạt động như trên đã giúp giáo viên chủ động trong công việc của mình, từ đó nội dung chuyên đề được triển khai sâu và rộng hơn.
b) Giải pháp 2: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua trang trí môi trường trong lớp học và ngoài lớp.
Đối với trẻ mầm non xây dựng môi trường giáo dục trẻ là rất quan trọng vì môi trường giáo dục có tốt thì mới kích thích sự khám phá tìm tòi của trẻ. Môi trường trong lớp tôi trang trí các nội dung theo chủ đề, làm nhiều góc mở và có nhiều đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật phế thải: như góc bé đến lớp tôi làm những chú cá chăm chỉ bằng vỏ nghêu, nắp chai… Ở góc sáng tạo của lớp, tôi để các nguyên vật liệu khác nhau cho trẻ thỏa sức thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình. Ví dụ: Chủ đề động vật tôi chuẩn bị khăn lau bảng, bao ni lông,… để trẻ làm con bướm; để lá cây cho trẻ làm con trâu,…Trang trí góc học tập những album ảnh về hành vi đúng để trẻ thường xuyên được nhìn thấy, khắc sâu và bắt chước làm theo. Đồ dùng đồ chơi ở các góc được sắp xếp gọn gàng khoa học, đẹp mắt để giáo dục được trẻ và để lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động.
Đặc biệt ở trong lớp có bảng phân công trực nhật và ở mỗi góc chơi tôi thường đề ra những nội qui nho nhỏ giúp trẻ có thể thực hiện đúng theo nội qui của từng góc chơi. Hàng ngày, hàng tuần, trẻ lớp tôi chỉ cần nhìn vào bảng phân công đó mà có thể tự giúp cô lao động trực nhật, lau dọn góc chơi, lau lá cây… từ đó trẻ có ý thức giữ gìn đồ dùng đồ chơi của lớp gọn gàng. Biết cất và lấy đồ chơi đúng quy định. Ngoài ra trước hành lang hiên lớp có diện tích rộng, thoáng mát, tôi làm góc thiên nhiên với những chậu hoa, chậu cây tận dụng từ chai nhựa, canh nhựa, lốp xe để trồng, làm thành con vật rất đẹp mắt và sáng tạo. Bênh cạnh, còn có đồ dùng đồ chơi cho trẻ khám phá thí nghiệm gieo hạt, chìm nỗi, pha màu… Phụ huynh nhiệt tình ủng hộ một số chậu hoa, cây cảnh, hạt giống. Trẻ tha hồ được vui chơi, trải nghiệm ở một môi trường thật thân thiện, xanh, sạch đẹp.
Đối với môi trường ngoài tôi cùng các cô trong cụm dùng các nguyên vật liệu bỏ đi làm đồ chơi cho trẻ trải nghiệm như: Âm thanh cuộc sống, bé với kỹ năng, vặn nắp chai có chữ cái tương ứng vào cổ chai… từ đó trẻ thấy được việc tận dụng nguyên vật liệu phế thải để bảo vệ môi trường. Đặc biệt tôi sử dụng những thùng, canh nước to, xô… đã bỏ làm thành những thùng rác có ký hiệu, trang trí bắt mắt khác nhau giúp trẻ háo hứng, thích thú tự ý thức được việc nhặc rác phân loại rác hữu cơ, vô cơ, rác tái chế trước khi bỏ vào thùng.
c) Giải pháp 3: Lồng ghép tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các hoạt động học, hoạt động chơi…
Có thể nói đây là “Cách giải” khó nhất nhưng cũng quan trọng nhất cho “Bài toán” này. Giáo viên có thể lập được kế hoạch cho chương trình giáo dục khéo léo, không linh hoạt thì chắc chắn sẽ không thể chuyển tải được các yêu cầu đến trẻ một cách tích cực nhất. Vậy dạy trẻ như thế nào và dạy vào những lúc nào để đạt hiệu quả?
Tổ chức các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường gắn liền với các hoạt động hằng ngày của trẻ như hoạt động học, hoạt động chơi, hoạt động ăn ngủ, vệ sinh, lao động và nêu gương…, nhằm giúp trẻ cảm thấy gần gũi và tiếp thu nhanh hơn. Đó là các hoạt động như; rửa tay, rửa mặt, súc miệng, sắp xếp đồ dùng …thông qua các trò chơi nhẹ nhàng như; “Tay bé nào sạch nhất?”, “Răng ai trắng tinh?”, “Chiếc tủ gọn gàng”, “Bé trực nhật giúp cô”…Đó cũng có thể là một giờ hoạt động học mang tính trải nghiệm, khám phá những vấn đề về môi trường như: “Sự chuyển màu của nước” “Nước sạch, nước bẩn”, “Cây lớn lên như thế nào?”, “Hãy tránh xa khói bụi”, “Mũ, kính và những chiếc khẩu trang đáng yêu”…Hoặc có thể đó là một buổi lao động tập thể như nhặt lá rụng ở sân trường để làm đồ chơi, tham gia trồng rau trong vườn trường.(Hình 1, 2, 3, 4)
Tận dụng các thời điểm trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ để lồng ghép, tổ chức hoạt động có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường.
Hoạt động đón trẻ
Đây là hoạt động gần gũi nhất, mà cô giáo dễ hình thành thói quen bảo vệ môi trường. Lúc trẻ mới đi học những buổi đầu tiên trẻ chưa quen với trường lớp, chưa có ý thức bảo vệ môi trường, trẻ chưa biết nơi để đồ dùng cá nhân của mình, hay nơi để sọt rác, chưa biết ăn bánh kẹo, uống sữa xong phải bỏ sọt rác mà trẻ vứt ngay trên sân trường. Khi chơi tự do trên sân trong giờ đón trẻ, trẻ còn dẫm lên cỏ, tự do bứt lá bẻ cành chơi,…thì cô giáo là người hướng dẫn trẻ biết. Nếu thấy trẻ nào ăn quà vặt, uống sữa thì tôi nhắc cháu ăn xong vỏ thì con phải bỏ vào sọt rác, không được vứt lung tung, nếu thấy trẻ chưa thực hiện thì cô giáo kịp thời nhắc nhở, khi cho trẻ chơi tự do trên sân cô là người hướng dẫn trẻ không nên bứt lá bẻ cành, dẫm lên cỏ,…
Thông qua hoạt động học
Lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào trong các hoạt động một cách nhẹ nhàng, đơn giản, hấp dẫn, không gượng ép và thật gần gũi với cuộc sống xung quanh trẻ, đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với độ tuổi.
+ Tích hợp giáo dục môi trường trong hoạt động khám phá khoa học
Ví dụ: Tiết học khám phá khoa học: “Phân loại rác”.
Trẻ biết tên gọi của một số loại rác: rác hữu cơ, rác tái chế, rác còn lại
Trẻ biết tác hại của việc vứt rác bừa bãi.
Biết lợi ích của việc phân loại rác: Bảo vệ môi trường, giảm tác hại của rác, sử dụng lại các loại rác có thể tái chế.
Giáo dục trẻ có những hành vi, thói quen bảo vệ môi trường, phân loại rác đúng theo qui định.
Ví dụ: Chủ đề nước và hiện tượng thiên nhiên. Đề tài: Bé tìm hiểu về môi trường.
Trẻ biết được một số nguyên nhân làm cho môi trường bị ô nhiễm gây nên biến đổi khí hậu.
Trẻ biết được tài nguyên thiên nhiên rừng bị tàn phá gây ra lũ lụt.
Trẻ biết một số hành động để bảo vệ môi trường và cách ứng phó khi khí hậu biến đổi.
Giáo dục trẻ luôn có ý thức bảo vệ môi trường xung quanh mình xanh-sạch-đẹp. Có hành vi bảo vệ môi trường trong sinh hoạt hằng ngày.
Ví dụ: Về Chủ đề Thực vật: Tìm hiểu về sự phát triển và lợi ích của cây xanh
Trẻ biết tại sao phải trồng cây? Trồng cây để làm gì? Muốn cây xanh tươi tốt chúng ta làm gì?
Cho trẻ xem những đoạn video khai thác bừa bãi tài nguyên rừng, chặt phá rừng của con người làm cho lũ lụt, sạc lỡ nghiêm trọng. Từ đó giáo dục trẻ phải biết ngăn chặn những hành vi chặt phá rừng bừa bãi, biết trồng cây, trồng rừng để bảo vệ môi trường.
+ Tích hợp giáo dục môi trường trong hoạt động tạo hình
Tập cho trẻ có thói quen tận dụng các nguyên vật liệu phế thải: vỏ hộp sữa, chai lọ, sách báo cũng…làm những đồ chơi như: chú cá, chú ếch, chú rùa đáng yêu, làm con lợn bằng hủ susu, làm gà giấy, làm chim giấy, những chú nghé con, …(Hình 4). Từ đó giáo dục trẻ biết tận dụng nguyên vật liệu phế thải làm đồ chơi vừa tiết kiệm, vừa bảo vệ môi trường.
Trong giờ hoạt động tạo hình vẽ vườn cây ăn quả bé thích, tôi lồng ghép giáo dục trẻ biết trồng, chăm sóc, bảo vệ cây vì cây giúp ích cho con người, làm cho bầu khí quyển trong lành, hay vẽ theo ý thích của trẻ, hội thi vẽ tranh với chủ đề “Bé bảo vệ môi trường”. Tôi gợi ý cho trẻ vẽ những tranh có nội dung phản ánh môi trường thực tế, các hoạt động bảo vệ môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường ở trường mầm non, gia đình nơi sống của trẻ. Trẻ rất hứng thú, hăng say khi đưa ra ý tưởng và thể hiện bài vẽ của mình.
+ Tích hợp giáo dục môi trường trong hoạt động làm quen văn học
Sưu tầm, lựa chọn những câu chuyện, bài thơ trong và ngoài chương trình có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường đọc, kể cho trẻ nghe.
Ví dụ: Chuyện: Bé và bao ni lông
Bé xé bao ni lông vỏ bánh và vứt ở đâu? Bố bạn đã làm gì? Bạn đã hỏi bố điều gì? Bố kể cho bé nghe câu chuyện về chú cá voi đã nhầm tưởng những chiếc túi ni lông trôi trên biển là tôm và cá và đã ăn vào cuối cùng chú cá voi đã chết vì ngộ độc chất dẻo. Sau khi bố kể song bố hỏi trẻ điều gì? (Con có thương cá voi không?) Bé đã hiểu ra điều gì? Sau đó bé làm gì? (Bé bảo bố đưa túi ni lông cho mình và đi vứt vào thùng rác). Qua câu chuyện đó tôi hỏi trẻ rút ra điều gì? …
Hay bài thơ “Cây thược dược”, “Đừng nhé bé ơi”, “Tiết kiệm nước”, “Lá khóc”. Chuyện “Nỗi buồn chim sơn ca, “Khỉ con ăn chuối”, “Vòi nước khóc”, “Nước kiện ai”, “Tiếng kêu cứu của rừng xanh”, Cậu bé và cây, … đưa vào những chủ đề thích hợp. Qua mỗi câu chuyện, bài thơ để trẻ có thể khắc sâu hơn tôi thường cho trẻ tự rút ra bài học về việc bảo vệ môi trường rồi tôi mới giáo dục trẻ.
Hoạt động ngoài trời
Cho trẻ quan sát môi trường trong và ngoài lớp, cô có thể trò chuyện, gợi hỏi về môi trường trẻ đang đến và cảm nhận được gì? Vì sao trẻ phải thực hiện điều đó? Qua đó cô giáo dục cháu không ngắt lá bẻ cành nhặt rác bỏ vào thùng, nhổ cỏ tưới nước cho cây, tập cách phân loại rác, nhặt riêng các loại rác có thể tái sử dụng để làm đồ chơi trong lớp (vỏ hộp sữa chua….) các loại rác hữu cơ, rác không thể tái sử dụng bỏ vào thùng rác. Ngoài ra trẻ còn được hướng dẫn cách bảo vệ nguồn nước, thiết kiệm điện nước. (Hình 5)
Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua hoạt động vui chơi
Thông qua các trò chơi phân vai, trẻ đóng vai và thể hiện các công việc của người trẻ bắt chước những hoạt động của người lớn, đồng thời phản ảnh sinh động những điều mà trẻ đã tiếp nhận được từ môi trường bên ngoài, cũng từ đó giáo viên kịp thời uốn nắn, chỉnh sửa khi trẻ biểu hiện chưa chuẩn mực như: Bé làm người làm công tác bảo vệ môi trường như: Trồng cây, chăm sóc cây, nhặt rác…xung quanh khu vực của lớp mình. Trẻ đóng vai bác sĩ phòng khám đa khoa (khám chữa bệnh cho mọi người, chú ý giữ gìn vệ sinh phòng khám, xử lý rác thải y tế…) hay “bé tập làm nội trợ” cô dạy trẻ có ý thức tiết kiệm nước, thu dọn đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp. Sau khi chế biến thức ăn, biết bỏ rác vào đúng nơi quy định.
Thông qua các trò chơi học tập: trẻ tìm hiểu các hiện tượng trong môi
trường, trẻ biết các hành vi tốt, hành vi xấu đối với môi trường, phân biệt môi
trường sạch, môi trường bẩn và biết giữ cho môi trường luôn sạch đẹp.
Góc nghệ thuật: Xé lá cây nhặt được tạo thành con nghé, khuôn mặt cười,…Cô cho trẻ làm theo nhóm, làm con cá bằng những chiếc đĩa cũ, làm bánh chưng bằng vỏ hộp bánh, tận dụng những quyển lịch, những tờ bìa làm thiệp chúc tết. Qua đó giáo dục các cháu biết tận dụng các vật liệu cũ để làm đồ chơi đồng thời góp phần làm sạch môi trường.
Góc thiên nhiên: Chăm sóc cây cảnh, tưới nước cho cây, nhặt lá vàng, lá rụng,…
Thông qua hoạt động lao động
Thường vào các buổi thứ 6 cuối tuần tôi cho trẻ lao động vệ sinh môi trường xung quanh lớp như:
+ Tổ 1: Thu gom rác xung quanh trường (nhặt giấy vụn, vỏ bim bim, vỏ hộp sữa, thu gom lá bỏ vào thùng rác)
+ Tổ 2: Lau đồ dùng, đồ chơi, các giá để đồ chơi của lớp. (Hình 6)
+ Tổ 3: Sắp xếp đồ chơi đúng nơi quy định.
d) Giải pháp 4: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua việc làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu đã dùng.
Vừa giáo dục trẻ bảo vệ môi trường vừa giúp cho trẻ có được những đồ dùng đồ chơi đẹp mắt và sáng tạo. Tôi đã hướng dẫn trẻ làm một số đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên và vật liệu đã qua sử dụng: Lấy lá chuối bện con vật, bện kèn, nhặt hoa cỏ dại tập gói hoa tăng cô, tặng mẹ…Lấy hột hạt, vỏ hến, sỏi…để xếp hoa, quả. Thông qua đó tôi giáo dục trẻ ý thức tiết kiệm và ý thức việc bảo vệ môi trường và lao động sáng tạo.
Qua các giờ học tạo hình, hoạt động ngoài trời có thể tập cho trẻ có thói quen tận dụng nguyên vật liệu phế thải, võ hộp sữa, chai lọ, tạp chí, họa báo để tạo ra đồ chơi ngộ nghĩnh. Làm những chiếc thuyền buồm, xe ô tô, tàu hỏa, những chiếc máy bay xinh xắn, từ vỏ hộp sữa, chai nước rửa chén. Qua đó phát triển năng khiếu thẩm mỹ, khả năng sáng tạo của trẻ, giúp trẻ nhận thấy sự cần thiết có ý thức giữ gìn môi trường xung quanh ( Hình 6)
đ) Giải pháp 5: Tăng cường công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường.
“Vì môi trường xanh – sạch – đẹp. Mẹ và cô cùng chia sẻ”, đây là thông điệp tôi đã chuyển tải tới phụ huynh qua các bảng tuyên truyền ở lớp, các buổi họp phụ huynh, giờ đón trả trẻ và đặc biết là qua nhóm zalo lớp…
Thực tế cho thấy, việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non chỉ có thể thành công khi có sự phối kết hợp chặt chẽ, sự ủng hộ, chia sẽ của các bậc phụ huynh. Phương châm của tôi là: “Các bậc phụ huynh, những cô giáo (Người thầy) thứ hai trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường”
Thông qua đây có thể vận động phụ huynh góp nguyên vật liệu phế thải như: hộp sữa, vỏ chai nhựa, giấy cạc tông…để làm đồ chơi cho trẻ cũng góp phần bảo vệ môi trường thêm sạch đẹp.
Hiểu được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền tới phụ huynh trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường nên ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã chuẩn bị kế hoạch chu đáo để trao đổi cùng phụ huynh, tuyên truyền các công việc, lợi ích của công việc mà giáo viên và phụ huynh sẽ làm trong năm học để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Qua đó, lắng nghe ý kiến đóng góp cúa phụ huynh để điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp.(Hình 7)
Thông qua đây có thể vận động, tuyên truyền phụ huynh tăng cường công tác giáo dục cho trẻ biết bảo vệ môi trường khi ở nhà: Bé cũng biết bỏ rác đúng nơi qui đinh, biết cùng ba mẹ phân loại rác…đặc biệt phụ huynh biết hạn chế sử dụng túi ni lông khi đi chợ, thay vào đó chúng ta có thể dùng giỏ, khay nhựa, hộp nhựa để đựng thức ăn nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ túi ni lông gây ra.
Không chỉ dừng lại ở việc trao đổi, quan trọng hơn là phải để phụ huynh được trực tiếp tham gia cùng trẻ. Vì vậy, tôi đã phát động các phong trào:
*Thông điệp màu xanh.
Phụ huynh cùng trẻ sưu tầm nguyên vật liệu vừa làm sạch môi trường vừa làm đồ dùng học tập cho trẻ.
Ở nội dung này, tôi đã sử dụng các loại thùng cạc tông trang trí thành một đoàn tàu để đựng nguyên vật liệu phụ huynh và trẻ mang đến, sau đó giúp trẻ phân loại các nguyên vật liệu. Trên mỗi toa tàu, tôi có ghi tên các nhóm nguyên vật liệu kèm theo hình ảnh hoặc đồ dùng minh họa.
Ví dụ: Toa số 1: giấy, họa báo, truyện tranh. Trong toa đó, tôi đặt một vài quyển truyện, họa báo cũ. Toa số 2: đồ dùng gia đình. Trong toa đó, tôi để đồng hồ, điều khiển ti vi, điện thoại…Và bên cạnh đoàn tàu là những thông điệp mang nội dung giáo dục bảo vệ môi trường dành cho cả phụ huynh và trẻ được trang trí dưới nhiều hình thức khác nhau bằng chính các nguyên vật liệu mà phụ huynh sưu tầm.
Cũng từ hoạt động này, tôi huy động được phụ huynh đóng góp những lọ cây xanh cho lớp như Lan Ý, Hồng Môn, Lan Huệ…Với số lượng cây xanh ba mẹ mang đến, tạo thành một góc cây xanh ở lớp, tạo môi trường giúp trẻ chăm sóc cây hằng ngày nhằm nâng cao ý thức cho trẻ. (Hình 8)
*Sáng tạo cùng bé yêu
Với các nguyên vật liệu sưu tầm được, tôi đã tuyên truyền và hướng dẫn phụ huynh làm cùng trẻ những đồ dùng, đồ chơi khác nhau để mang đến lớp.
Thông qua đó, phụ huynh vừa được chia sẽ cùng con cách làm đồ chơi, giáo dục con ý thức bảo vệ môi trường, vừa chia sẽ công việc mà trước đây chỉ có cô và trẻ thực hiện. Kết quả là số lượng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động của lớp phong phú hơn và chủ yếu là những đồ chơi làm từ nguyên vật liệu do phụ huynh cùng trẻ sưu tầm được.
Cùng với những nguyên vật liệu trên, chúng tôi cũng đã tạo ra rất nhiều đồ chơi theo các chủ đề khác nhau để làm mẫu gợi ý trẻ sáng tạo.
2.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết
*Thuận lợi
Được sự quan tâm và ủng hộ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường cùng với ba mẹ về tinh thần và vật chất, để tôi hoàn thành tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Được nhà trường tập huấn về việc bảo vệ môi trường – giảm thiểu rác thải trên sông, hồ và đại dương thông qua cải thiện quản lý rác thải tại nguồn.
Được chuyên môn tổ chức thao giảng các chuyên đề về bảo vệ môi trường, phân loại rác thải, hạn chế sử dụng túi ni lông.
Bản thân là giáo viên đứng lớp tôi luôn tìm tòi và tận dụng những nguyên vật liệu phế thải để làm những đồ dùng đồ chơi cho trẻ được trải nghiệm, được chơi và phục vụ cho tiết học. Thường xuyên lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường để giáo dục trẻ vào các hoạt động hằng ngày.
Từ đó trẻ có ý thức trong việc bảo vệ môi trường, trẻ biết vứt rác đúng nơi qui định, biết nhặt rác bỏ vào thùng, biết chăm sóc cây xanh, không bứt lá bẻ cành.
Hiện nay tại địa phương có tổ chức dịch vụ thu gom rác thải thường xuyên.
*Khó khăn
Ý thức giữ gìn môi trường ở trẻ chưa được trang bị tốt, trẻ chưa biết bỏ rác vào thùng sau khi ăn bánh kẹo, vứt hộp sữa trên sân sau khi uống mà vẫn không biết hành động đó của mình là sai. Nhiều lúc trẻ vẫn vô tư bứt hoa bẻ cành, đi vệ sinh không đúng nơi quy định, chưa ý thức sử dụng tiết kiệm điện, nước,…trẻ chưa có có ý thức giữ gìn vệ sinh thân thể, trẻ còn thơ ơ đến việc giữ gìn môi trường lớp học, chưa tự giác thực hiện công việc dọn vệ sinh lớp, lau chùi kệ góc cùng cô, trực nhật, quét lớp, nhặt rác, chăm sóc cây, trồng cây xanh,…
Ba mẹ phần lớn làm rẫy, chưa thực sự quan tâm đến con em mình, một số trẻ mặt mũi còn nhem nhuốc khi đến trường, đầu tóc, quần áo chưa gọn gàng sạch sẽ, móng tay, móng chân chưa được cắt ngắn thường xuyên. Ngay cả khi đưa trẻ đi học còn chạy xe thẳng vào trường để lại những làn khói đen gây ô nhiễm không khí nơi trẻ đang sinh hoạt. Nhiều ba mẹ còn hút thuốc nơi công cộng, đổ rác bừa bãi ở khu dân cư…
Từ những thuận lợi, khó khăn trên tôi đã suy nghĩ, tìm ra những giải pháp thiết thực trong việc chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt giáo dục bảo vệ môi trường nên tôi quyết định chọn đề tài: “Một vài biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non”
2.3. Nội dung đã cải tiến sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại
Để làm tốt công tác giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ ở trường mầm non thì người giáo viên cần xây dựng kế hoạch giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ qua các chủ đề dựa vào tình hình của lớp, khả năng thực tế của trẻ. Việc lồng ghép tích hợp này phải có hệ thống đối với từng chủ đề, tránh trùng lặp và gây quá tải đến việc tổ chức các hoạt động chính.
Đối với trẻ mầm non xây dựng môi trường giáo dục trẻ là rất quan trọng vì môi trường giáo dục có tốt thì mới kích thích sự khám phá tìm tòi của trẻ. Môi trường trong lớp được trang trí các nội dung theo chủ đề, làm nhiều góc mở tận dụng các nguyên vật liệu phế thải để trang trí, để làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo. Từ đó trẻ thấy được việc tận dụng nguyên vật liệu phế thải để bảo vệ môi trường.
Tổ chức các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường gắn liền với các hoạt động hằng ngày của trẻ như hoạt động học, hoạt động chơi, hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh, lao động, nêu gương… Giúp trẻ hiểu và phân biệt được đâu là môi trường sạch, môi trường bẩn. Biết lau dọn, sắp xếp gọn gàng đồ dùng, đồ chơi, không vứt rác, không vứt đồ chơi bừa bãi. Đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết rửa tay thường xuyên. Biết tiết kiệm nước trong sinh hoạt hằng ngày. Hướng dẫn trẻ cách gieo hạt, trồng cây để tạo môi trường xanh, sạch, đẹp cho lớp. Giúp cho trẻ hiểu cây xanh rất có ích cho con người, giảm ô nhiễm môi trường, giảm bụi, giảm tiếng ồn. Khi tổ chức các hoạt động nên để trẻ trải nghiệm, trao đổi và giáo viên lắng nghe ý kiến của trẻ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho trẻ được thể hiện ý tưởng của mình. Tận dụng thời gian của giờ sinh hoạt chiều để giáo dục trẻ thói quen trực nhật cuối ngày theo nhóm hoặc cá nhân.
Thông qua giờ đón và trả trẻ, các buổi họp phụ huynh và ngày hội, ngày lễ trong năm học, thường xuyên tuyên truyền phụ huynh cùng chung tay giáo dục trẻ giữ vệ sinh môi trường ở mọi lúc, mọi nơi, ở gia đình, nhà trường cũng như ở nơi công cộng. Để tạo cho trẻ có một thói quen hành vi văn minh, có ý thức bảo vệ môi trường phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho con trẻ không phải chỉ ở phía nhà trường mà còn ở gia đình nữa. Vận động phụ huynh sưu tầm và hỗ trợ về nguồn nguyên liệu phế thải để giáo viên tận dụng làm đồ chơi để làm phong phú hơn đồ chơi tại lớp cho trẻ.
Đối với trẻ những công việc mà trẻ làm được để bảo vệ môi trường tuy rất nhỏ, nhưng nó có ý nghĩa rất lớn và góp sức bảo vệ môi trường hình thành cho thế hệ trẻ tương lai sau này, có ý thức trách nhiệm với môi trường hơn, bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Vì tương lai của trái đất Xanh – Sạch – Đẹp.
2.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Qua đề tài sáng kiến: “ Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non” tôi thấy mang tính khả thi cao, dễ thực hiện, giúp trẻ có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường và khả năng thực hành thông qua giờ học, vui chơi, lao động…
Đề tài sáng kiến ngoài áp dụng ở lớp thì còn được nhân rộng ra các lớp bên cạnh, các lớp trong trường và những trường mầm non có cùng điều kiện được các đồng nghiệp áp dụng. Hiện nay, việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường đã trở thành một thói quen và được áp dụng cho tất cả các trường mầm non.
2.5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có)
2.5.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
– Kết quả trên trẻ
Các hành vi thói quen tốt được hình thành như: Biết giữ gìn vệ sinh lớp học luôn sạch sẽ, không vứt rác bừa bãi, đi vệ sinh đúng nơi qui định. Trẻ biết sắp xếp đồ dùng đồ chơi ngăn nắp sau khi sử dụng, thường xuyên lau chùi kệ góc,
Trẻ biết ý thức giữ gìn khuôn viên trường lớp, biết tiết kiệm nước, thức ăn không làm rơi vãi, biết chăm sóc tưới nước cho cây, cây xanh luôn được lau chùi sạch sẽ…, nhặt rác thải bỏ vào thùng.
Ngoài ra, trẻ còn biết nhắc nhở khi nhìn thấy người khác xả rác bừa bãi, không hút thuốc ở nơi công cộng, biết nói hút thuốc lá có hại cho sức khỏe và ảnh hưởng tới môi trường, biết nhắc ba mẹ không chạy xe vào sân trường.
+ Kết quả đạt cụ thể
Tổng số trẻ của lớp tôi là: 35 trẻ.
* Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường ở đầu năm học
Loại tốt: 7 cháu, tỉ lệ 20%.
Loại khá: 10 cháu, tỉ lệ 28,6%.
Loại trung bình: 13 cháu, tỉ lệ 37,1%.
Loại yếu: 5 cháu, tỉ lệ 14,3%.
* Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường đến thời điểm hiện tại
Loại tốt: 20 cháu, tỉ lệ 57,1%, tăng so với đầu năm là 37,1%
Loại khá: 15 cháu, tỉ lệ 42,9%, tăng so với đầu năm là 14,3%
– Kết quả từ phía các bậc phụ huynh
Các bậc phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ biết bảo vệ môi trường ở mọi lúc mọi nơi.
Phụ huynh luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường.
Phụ huynh đã hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường.Từ đó phụ huynh rất nhiệt tình trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của trẻ ở nhà và luôn quan tâm đến trẻ, dành thời gian để dạy trẻ về kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng vệ sinh, dạy trẻ biết tránh xa những nơi nguy hiểm, biết phân biệt được hành vi đúng, sai, môi trường bẩn, môi trường sạch…
Phụ huynh không còn chạy xe vào sân trường, không hút thuốc nơi công cộng. Những hành động đó được lan tỏa cho các bậc phụ huynh khác trong trường, cùng nhau thực hiện tốt nếp sống văn hóa ở khu dân cư.
2.5.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của các cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có)
Với môi trường lớp học luôn được trang trí với những hình ảnh thiết thực như tranh bé nhặt rác bỏ vào thùng, bé chăm sóc cây xanh, tưới nước, nhổ cỏ…từ đó trẻ có thói quen luôn giữ môi trường lớp học sạch sẽ, đồ dùng đồ chơi luôn được sắp xếp gọn gàng, kệ góc được lau chùi thường xuyên, lau lá cây thường xuyên.
Phụ huynh nhiệt tình ủng hộ lớp những chậu cây cảnh nhỏ, cây xanh, hạt giống để tạo cho khung cảnh vườn trường thêm đẹp hơn, những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng đồ chơi.
Cũng từ đó mà các lớp đã có thêm điều kiện, thuận tiện rất nhiều giảm bớt khó khăn về trang thiết bị, đồ dùng sáng tạo mà đặc biệt là sự chú ý của trẻ phát triển một cách rõ rệt.
3. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Đối với trẻ mầm non thường học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ. Để giáo dục nề nếp bảo vệ môi trường cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường một cách hiệu quả nhà trường đã tổ chức tập huấn về bảo vệ môi trường, giảm thiểu rác thải. Trong sân trường nhà trường có treo những bảng hiệu, pano, biểu bảng về việc bảo vệ môi trường cho trẻ được quan sát. Nhà trường còn đầu tư thùng rác để phân loại rác
Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học. Cảnh quan nhà trường thoáng rộng, có nhiều cây xanh che bóng mát, nhà vòm. Có vườn rau, cây cảnh ở sân trường cũng góp phần rất lớn cho trẻ quan sát trong giờ học, dạo chơi ngoài trời, từ đó cung cấp cho trẻ những kiến thức thể hiện sự hiểu biết của mình về thế giới môi trường xung quanh.
Tổ chuyên môn đã tổ chức thao giảng các chuyên đề về bảo vệ môi trường, phân loại rác thải, hạn chế sử dụng túi ni lông.
Giáo viên có thể sử dụng các phương tiện như máy tính, tài liệu, biểu bảng, pa nô hình ảnh để giáo dục cho trẻ. Giáo viên còn có thể tận dụng nguyên vật liệu phế thải để làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ trải nghiệm, vui chơi và phục vụ cho tiết học. Không những thế mà cho trẻ thực hiện trực tiếp ngoài sân trường giúp trẻ tự biết bảo vệ môi trường như nhặt rác bỏ đúng nơi quy định, không bẻ cành, hái hoa, không vẽ bậy lên tường…Ngoài ra giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo dục hàng ngày vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lễ hội, tham quan…Bên cạnh đó giáo dục trẻ hạn chế sử dụng túi ni lông nhằm bảo vệ môi trường bằng cách vận động, khuyến khích ba mẹ thay vì dùng túi ni lông hãy dùng giỏ đi chợ.
5. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có)
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hổ trợ
1 Nguyễn Thị Vân 13/8/1993 MN Đại Hồng GV ĐHSPMN Áp dụng biện pháp 1, 2, 3 vào tại lớp Bé 1
2 Trần Thị Kim Phượng 29/1/1990 MN Đại Hồng GV ĐHSPMN Áp dụng dụng biện pháp 2, 3, 4 vào tại lớp lớn Nhỡ 1
33 Lê Thị Yến Nhi 10/101991 MN Đại Hồng GV ĐHSPMN Áp dụng biện pháp 3, 4, 5 vào tại lớp Lớn 1